Scholar Hub/Chủ đề/#rối loạn sự thích ứng/
Rối loạn sự thích ứng, còn được gọi là rối loạn cảm xúc, là một tình trạng tâm lý khi người bệnh không thể thích nghi với tình huống hay tác động cụ thể. Rối lo...
Rối loạn sự thích ứng, còn được gọi là rối loạn cảm xúc, là một tình trạng tâm lý khi người bệnh không thể thích nghi với tình huống hay tác động cụ thể. Rối loạn này có thể bao gồm các cảm xúc kéo dài và cường độ cao, gây ra khó khăn trong quá trình học hỏi, làm việc và gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của người bị mắc. Rối loạn sự thích ứng có thể xuất hiện trong nhiều hình thức như rối loạn thích nghi môi trường, rối loạn thích ứng xã hội, rối loạn thích ứng bốn mùa, và rối loạn thích ứng sau chấn thương. Tùy thuộc vào cụ thể từng rối loạn, triệu chứng và mức độ tồn tại có thể khác nhau, và việc điều trị thường gồm các phương pháp tâm lý và thuốc.
Rối loạn sự thích ứng có thể xuất hiện trong nhiều hình thức và có thể có sự chênh lệch lớn về triệu chứng và mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Dưới đây là một số rối loạn thích ứng phổ biến:
1. Rối loạn thích nghi môi trường (Environmental Adaptation Disorder): Đây là một rối loạn mà người bệnh không thể thích ứng hoặc tồn tại trong môi trường xung quanh mình. Các triệu chứng có thể bao gồm sự sợ hãi, lo lắng, thất vọng, đau đớn cả về cảm xúc lẫn thể chất khi phải đối mặt với môi trường đó.
2. Rối loạn thích ứng xã hội (Social Adaptation Disorder): Đây là một rối loạn mà người bệnh gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội và xây dựng và duy trì các mối quan hệ. Họ có thể không biết cách đọc hiểu ngôn ngữ phi ngôn từ, không thể nhìn thấy các gợi ý xã hội và thiếu khả năng thích nghi với những tình huống mới hay khác biệt.
3. Rối loạn thích ứng bốn mùa (Seasonal Adaptation Disorder): Đây là một rối loạn thích ứng tâm lý xảy ra khi thay đổi mùa. Người bệnh có thể trở nên ảm đạm, mệt mỏi và mất năng lượng vào mùa đông và hè-rừng hoặc cả hai.
4. Rối loạn thích ứng sau chấn thương (Adaptation Disorder after Trauma): Đây là rối loạn xảy ra sau khi trải qua một sự cố, sự kiện hoặc chấn thương mang tính cảm xúc. Người bệnh có thể trải qua triệu chứng như lo lắng, mất ngủ, giảm năng lượng và khó tập trung.
Để chẩn đoán và điều trị rối loạn sự thích ứng, thường cần tham gia cuộc trò chuyện với bác sĩ tâm lý, nhận diện các triệu chứng cụ thể và xác định các phương pháp điều trị phù hợp như tư vấn, terapi hành vi, terapi tâm lý cá nhân hoặc thuốc trợ giúp.
Sự Gia Tăng của Fentanyl Trái Phép, Chất Kích Thích và Làn Sóng Thứ Tư của Khủng Hoảng Quá Liều Opioid Dịch bởi AI Current Opinion in Psychiatry - Tập 34 Số 4 - Trang 344-350 - 2021
Mục đích của bài đánh giá
Bài đánh giá này cung cấp cập nhật về các tài liệu đã xuất bản gần đây liên quan đến sự gia tăng của fentanyls trái phép, các rủi ro của quá liều, sự kết hợp với các chất khác như chất kích thích, hệ quả và phương pháp điều trị.
Những phát hiện gần đây
Quá liều do opioid tổng hợp trái phép (như fentanyl và các chất tương tự fentanyl) tiếp tục gia tăng ở Hoa Kỳ trước và trong đại dịch COVID-19. Quá liều liên quan đến fentanyl đang gia tăng ở các khu vực địa lý mới như miền Tây Hoa Kỳ. Quá liều liên quan đến chất kích thích cũng đang gia tăng trên toàn quốc bởi methamphetamine và cocaine. Sử dụng nhiều chất ma túy, chẳng hạn như sử dụng một chất kích thích cùng với một opioid đang dẫn đến quá liều liên quan đến chất kích thích. Các hậu quả y tế khác của việc sử dụng ma túy qua kim tiêm cũng đang tăng lên bao gồm nhiễm HIV và viêm gan C. Các phương pháp điều trị rối loạn sử dụng opioid bằng thuốc vẫn là tiêu chuẩn điều trị và có các phương pháp dược phẩm tiềm năng mới để điều trị rối loạn sử dụng methamphetamine.
Tóm tắt
Một 'làn sóng thứ tư' của tỷ lệ tử vong cao bao gồm sử dụng methamphetamine và cocaine đang hình thành ở Hoa Kỳ. Sự sẵn có và sử dụng fentanyls trái phép vẫn là những yếu tố chính dẫn đến tử vong do quá liều và sự gia tăng hiện tại của tử vong liên quan đến chất kích thích dường như liên quan chặt chẽ với đại dịch opioid đang diễn ra.
#fentanyl trái phép #chất kích thích #quá liều opioid #rối loạn sử dụng #đại dịch opioid
Tác Động của Kích Thích Morphine–Neostigmine và Secretin Đến Hình Thái Học Ống Mật Tuỵ Ở Người Khỏe Mạnh: Một Nghiên Cứu Ngẫu Nhiên Chéo Mù Đôi Sử Dụng Kỹ Thuật MRCP Liên Tục Dịch bởi AI World Journal of Surgery - Tập 35 Số 9 - Trang 2102-2109 - 2011
Tóm TắtBối CảnhChụp cộng hưởng từ mật tuỵ có kích thích secretin (MRCP) được sử dụng để chẩn đoán rối loạn cơ vòng Oddi (SOD), nhưng nó không tương quan tốt với đo áp lực cơ vòng Oddi. Việc thực hiện MRCP liên tục sau kích thích morphine-neostigmine có thể có giá trị trong đánh giá SOD, nhưng tác động của các chất dược lý này đến hình thái học tuyến mật tuỵ ở những người khoẻ mạnh chưa được nghiên cứu. Mục tiêu của nghiên cứu này là sử dụng MRCP liên tục để mô tả các ảnh hưởng của kích thích morphine-neostigmine và secretin trên đáp ứng enzyme tuyến tuỵ trong máu và hình thái học ống dẫn mật tuỵ ở người khỏe mạnh.
Phương PhápSau khi thực hiện quét cơ bản và xét nghiệm amylase, lipase trong huyết thanh, 10 đối tượng khỏe mạnh được ngẫu nhiên theo phương pháp mù đôi để nhận morphine (10 mg tiêm bắp [IM]), neostigmine (1 mg IM) và dung dịch muối (tiêm tĩnh mạch [IV]); hoặc dung dịch muối (IM), dung dịch muối (IM) và secretin (1 U/kg IV). Một nghiên cứu MRCP được thực hiện vào các thời điểm 5, 30, 60, 90, 120, 150 và 180 phút sau, với mẫu máu được lấy mỗi 60 phút trong 4 giờ. Đường kính ống tuỵ chính (PD), chiều dài PD có thể nhìn thấy, đường kính ống mật chủ (CBD) và thể tích túi mật được ghi lại. Nghiên cứu chéo được thực hiện sau 10 ngày.
Kết QuảNồng độ enzyme tuyến tụy trong huyết thanh tăng đáng kể (amylase, P = 0.003; lipase, P = 0.04) sau khi sử dụng morphine-neostigmine so với secretin. Sau kích thích morphine-neostigmine và secretin, tỷ lệ tăng trung bình (SEM) về đường kính PD là 28,7 (7,2) so với 12,9 (3,3); P < 0.0001, và chiều dài PD có thể nhìn thấy là 49,4 (11,5) so với 28,1 (8,2); P < 0.0001, lần lượt.
Kết LuậnTác động của morphine-neostigmine nổi bật hơn so với của secretin ở người khỏe mạnh. Giá trị chẩn đoán của việc sử dụng MRCP liên tục được kích thích bởi morphine-neostigmine cho SOD cần được đánh giá thêm.
#MRCP #cơ vòng Oddi #rối loạn #morphine #neostigmine #secretin #tuyến mật tuỵ #enzyme tuyến tuỵ #chỉ định chẩn đoán #nghiên cứu mù đôi #kiểm soát chéo #hình thái học #tiêm bắp #tiêm tĩnh mạch
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG VỚI PHẢN ỨNG TRẦM CẢM KÉO DÀINghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang ở 32 người bệnh điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần, bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán chính xác là rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài (F43.21) theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn người bệnh rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài gặp ở độ tuổi từ 20 – 29 và 30 – 39 (28,1% và 25%). Tuổi trung bình của nhóm người bệnh này là 30,9 ± 13,4. Sang chấn tâm lý trong nhóm nghiên cứu gặp nhiều nhất là những sang chấn gia đình (90,6%). Trong 3 triệu chứng chính của trầm cảm, có 100% triệu chứng giảm năng lượng và tăng mệt mỏi. Trong 7 triệu chứng phổ biến của trầm cảm, triệu chứng rối loạn giấc ngủ là triệu chứng thường gặp nhất với tỉ lệ 96,9% và có tới 81,3% người bệnh có ý nghĩ tự sát và 59,4% người bệnh đã có hành vi tự sát. Trong 8 triệu chứng cơ thể của trầm cảm thì triệu chứng tỉnh giấc vào lúc sáng sớm hơn 2 giờ là triệu chứng gặp nhiều nhất với tỉ lệ (96,9%).
#rối loạn sự thích ứng #trầm cảm
ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG VỚI PHẢN ỨNG TRẦM CẢM NGẮNNghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả điều trị rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang ở 66 người bệnh điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc Gia, bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán chính xác rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn (F43.20) theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10. Kết quả cho thấy trong nhóm nghiên cứu, Amitriptylin được sử dụng nhiều nhất với liều khởi đầu trung bình là 40,3 ± 23,9 mg/ngày và liều cao nhất trung bình là 75,0 ± 35,4 mg/ ngày. Tiếp theo là Remeron với liều khởi đầu trung bình là 30,0 ± 13,6 mg/ngày và liều cao nhất là 47,6 ± 14,8. Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất của nhóm thuốc chống trầm cảm là khô miệng (62,1%)
#rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn #điều trị
ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG VỚI PHẢN ỨNG TRẦM CẢM KÉO DÀINghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả điều trị rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang ở 32 người bệnh điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc Gia, bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán chính xác rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài (F43.21) theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10. Kết quả cho thấy phần lớn người bệnh rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài gặp ở độ tuổi từ 20 – 29 và 30 – 39 (28,1% và 25%). Tuổi trung bình của nhóm người bệnh này là 30,9 ± 13,4. Trong nhóm thuốc chống trầm cảm, Zoloft được sử dụng nhiều nhất ở 20 người bệnh với liều khởi đầu trung bình là 70,0 ± 43,4 mg/ngày và liều cao nhất là 87,5 ± 48,3 mg/ngày. Tiếp đó là Amitriptylin được sử dụng với 19 người bệnh, liều khởi đầu trung bình là 59,2 ± 23,9 mg/ngày; liều cao nhất trung bình là 69,7 ± 15,8 mg/ngày. Tác dụng không mong muốn thường gặp nhất của nhóm thuốc chống trầm cảm với liều như ở trên là nhìn mờ và hạ huyết áp tư thế cùng tỷ lệ là 59,4%.
#rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài #điều trị
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN NHÂN CÁCH Ở NGƯỜI BỆNH RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNGMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn nhân cách ở người bệnh rối loạn sự thích ứng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang người bệnh rối loạn sự thích ứng điều trị nội trú tại Viện sức khỏe tâm thần Quốc gia – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022. Kết quả: Có 14 người bệnh có rối loạn nhân cách, chiếm 29.79%. Trong số các người bệnh có rối loạn nhân cách, có 6 người bệnh rối loạn nhân cách lo âu tránh né (F60.6) chiếm tỷ lệ cao nhất 42.86%, 4 người bệnh rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định (F60.3) chiếm 28.57%, 2 người bệnh rối loạn nhân cách dạng phân liệt (F60.1) chiếm 14.29%, 1 người bệnh rối loạn nhân cách kịch tính (F60.4), 1 người bệnh rối loạn nhân cách phụ thuôc (F60.7) chiếm tỷ lệ 7.14%. 100% người bệnh có rối loạn nhân cách lo âu tránh né đều có cảm giác căng thẳng lo sợ dai dẳng và lan tỏa, tất cả người bệnh rối loạn nhân cách không ổn định đều là loại ranh giới. Trong mối quan hệ tình cảm, 57.1% người bệnh rối loạn nhân cách có mối hệ tình cảm hòa thuận, 28.6% có mối quan hệ bất hòa, 14.3% đã ly thân hoặc ly dị. Có 78.6% người bệnh có ít bạn bè, đồng nghiệp, 28.6% có mối quan hệ bất hòa, không có người bệnh nào phải chuyển nhiều chỗ làm.
#rối loạn nhân cách #rối loạn sự thích ứng
Lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ở người bệnh điều trị nội trúNghiên cứu cắt ngang có mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ở người bệnh điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần. 98 người bệnh được chẩn đoán xác định rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn hoặc phản ứng trầm cảm kéo dài (F43.20, F43.21) theo tiêu chuẩn ICD 10; (ii) có thông tin đầy đủ về hành chính, tiền sử, bệnh sử, khám lâm sàng, các thông số cận lâm sàng; và (vi) gia đình và bản thân người bệnh đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. Người bệnh rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm đa phần là nữ (73,5%), nhóm tuổi thường gặp là từ 20 - 39, tuổi trung bình 32,7 ± 13,7. Đa số người bệnh có sang chấn tâm lý trong công việc và học tập (74,5%), xuất hiện với tính chất trường diễn (75,5%), thường có 2 sang chấn tâm lý (60,1%). Trong 3 triệu chứng chính, đã số gặp triệu chứng giảm năng lượng và tăng mệt mỏi (86,7%). Trong 7 triệu chứng phổ biến của trầm cảm, chủ yếu gặp triệu chứng rối loạn giấc ngủ (94,4%). Có tới 37,8% người bệnh có ý tưởng tự sát và 19,4% người bệnh có toan tự sát. Nghiên cứu bước đầu cho thấy những biểu hiểu điển hình của người bệnh rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm.
#rối loạn sự thích ứng; trầm cảm;
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG VỚI PHẢN ỨNG TRẦM CẢM NGẮNNghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang ở 66 người bệnh điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc Gia, bệnh viện Bạch Mai, được chẩn đoán chính xác rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn (F43.20) theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD 10. Kết quả: phần lớn người bệnh rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn gặp ở độ tuổi từ 20 – 29 và 30 – 39 với tỉ lệ cùng bằng 27,3%. Tuổi trung bình của nhóm người bệnh này là 33,6 ± 13,9. Sang chấn tâm lý trong nhóm nghiên cứu gặp nhiều nhất là những sang chấn trong công việc/học tập 69,7%. Trong 3 triệu chứng chính của trầm cảm, triệu chứng giảm năng lượng và tăng mệt mỏi là triệu chứng gặp nhiều nhất với tỉ lệ 80,3%. Trong 7 triệu chứng phổ biến của trầm cảm, triệu chứng rối loạn giấc ngủ là triệu chứng thường gặp nhất với tỉ lệ 93,9%. Không gặp triệu chứng có hành vi tự sát. Trong 8 triệu chứng cơ thể của trầm cảm thì triệu chứng tỉnh giấc vào lúc sáng sớm hơn 2 giờ là triệu chứng gặp nhiều nhất với tỉ lệ 93,9%. Ít gặp nhất là triệu chứng chậm chạp tâm thần vận động (39,4%).
#rối loạn sự thích ứng #trầm cảm
Phân Tích Cắt Ngang Về Sử Dụng Thuốc Lá Và Việc Sử Dụng Đồng Thời Rượu Và Chất Kích Thích Ở Những Bệnh Nhân Sống Chung Với Nhiễm HIV/HCV: Kết Quả Từ Một Trung Tâm Tầng Ba Lớn Ở Đô Thị Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 28 - Trang 553-561 - 2020
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến việc sử dụng thuốc lá ở những bệnh nhân sống chung với nhiễm HIV/HCV. Các kết quả tự báo cáo của bệnh nhân (PROs) đã được phân tích từ những bệnh nhân sống chung với nhiễm HIV/HCV (n = 313) đã đến khám và điều trị nhiễm HCV từ năm 2013 đến 2017 tại một Phòng Khám Nhiễm HIV/HCV của trường đại học. Tỷ lệ sử dụng thuốc lá ở những bệnh nhân sống chung với nhiễm HIV/HCV là 48%. So với những người không hút thuốc, một tỷ lệ cao hơn trong số những người sử dụng thuốc lá có rối loạn sử dụng chất. Trong phân tích đa biến, việc sử dụng rượu và chất cùng lúc có mối liên hệ tích cực với việc sử dụng thuốc lá. Các phát hiện gợi ý rằng cần có các can thiệp lâm sàng khẩn cấp để giảm việc sử dụng thuốc lá ở những bệnh nhân sống chung với nhiễm HIV/HCV - một nhóm dân số dễ bị tổn thương và có hệ miễn dịch suy yếu. Nếu không, những nỗ lực không thành công trong việc dành tài nguyên và các can thiệp hành vi cụ thể cho nhóm dân số này sẽ cản trở khả năng sống sót - đặc biệt khi xem xét đại dịch COVID-19 gần đây và đang phát triển.
#HIV #HCV #sử dụng thuốc lá #rối loạn sử dụng chất #can thiệp lâm sàng
Béo phì nội tạng kích thích sự hình thành cầu nối anaphase và rối loạn điểm kiểm soát lắp ráp thoi trong ung thư biểu mô thực quản kháng xạ Dịch bởi AI Clinical and Translational Oncology - Tập 18 - Trang 632-640 - 2015
Ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến là một mô hình tiêu biểu của ung thư liên quan đến béo phì. Bệnh ở giai đoạn địa phương thường được điều trị bằng hóa trị liệu kết hợp xạ trị trước phẫu thuật, và tỷ lệ sống sót cao nhất ở những bệnh nhân có đáp ứng bệnh lý sau liệu pháp tiền phẫu. Với việc 55% bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến bị béo phì, việc khám phá tác động của mô mỡ đến phản ứng với xạ trị là có liên quan lâm sàng. Nghiên cứu này điều tra xem mô mỡ có kích hoạt các sự kiện không ổn định nhiễm sắc thể trong các dòng tế bào ung thư thực quản nhạy xạ (OE33P) và kháng xạ (OE33R) cũng như mẫu khối u hay không. OE33R và OE33P được nuôi cấy với môi trường có điều kiện từ mô mỡ lấy từ bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản (n = 10). Các cầu nối anaphase, một chỉ số của sự không ổn định nhiễm sắc thể, đã được đếm trong cả hai dòng tế bào sau khi điều trị bằng môi trường mô mỡ, và được chuẩn hóa theo số lượng tế bào. Sự không ổn định nhiễm sắc thể được điều chỉnh bởi phức hợp lắp ráp thoi. Sự biểu hiện của hai gen phức hợp lắp ráp thoi (MAD2L2, BUB1B) được đánh giá bằng qPCR, và được xác nhận trong các mẫu khối u của bệnh nhân bị béo phì nội tạng (n = 46) và không béo phì (n = 41). Môi trường có điều kiện từ mô mỡ làm tăng cầu nối anaphase trong OE33R (p < 0.0001), với sự tăng gấp ba lần trong OE33R so với OE33P (p < 0.01). Mức cầu nối anaphase trong tế bào OE33R có mối tương quan với trạng thái béo phì nội tạng được đo bằng vòng eo (R = 0.709, p = 0.03) và diện tích mỡ nội tạng (R = 0.794, p = 0.006). Mô mỡ đã làm thay đổi biểu hiện của MAD2L2 trong ống nghiệm. Trong cơ thể, sự biểu hiện của MAD2L2 cao hơn ở bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến bị béo phì nội tạng so với bệnh nhân không béo phì (p < 0.05). Mức độ cầu nối anaphase bị ảnh hưởng bởi tình trạng béo phì và độ nhạy xạ trong ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến. Hơn nữa, môi trường có điều kiện từ mô mỡ nội tạng kích thích sự rối loạn của phức hợp lắp ráp thoi ở bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến.
#ung thư biểu mô thực quản #béo phì nội tạng #cầu nối anaphase #rối loạn điểm kiểm soát lắp ráp thoi #sự không ổn định nhiễm sắc thể